Lịch sử hát xoan
Phú Thọ, miền đất cội nguồn dân tộc, một kho tàng văn hoá phi vật thể mang đậm bản sắc dân gian của đất Tổ. Những di sản văn hoá đó phản ánh cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc trong những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đồng thời còn phản ánh cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên. Với tinh thần đoàn kết, sáng tạo với sự cần cù bền bỉ, với tâm hồn, trí tuệ của con người Đất Tổ chúng ta đã chiến thắng vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Hát Xoan Phú Thọ một loại hình dân ca đặc sắc trong kho tàng văn hóa dân gian vùng Đất Tổ. Hát Xoan là dân ca nghi lễ phong tục, hát trước cửa đình trong lễ hội mùa xuân và chỉ hát vào những ngày hội đám, tế thần khi làng mở hội.
Nguồn gốc của Hát Xoan có rất nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến thời kỳ các Vua Hùng dựng nước Văn Lang.
Tại làng Phù Đức (gồm cả phường xoan Phù Đức, phường Thét) theo truyền thuyết kể rằng Vua Hùng đi tìm đất đóng đô, một hôm nghỉ chân ở nơi đây là quê Xoan Phù Đức - An Thái, được thấy các trẻ chăn trâu hát múa vua rất ưa thích và lại dạy các em thêm nhiều điệu khúc nữa, những điệu hát múa ấy của Vua Hùng và các em chăn trâu, đó cũng là những điệu Xoan đầu tiên.
Tại làng An Thái lại có truyện kể rằng vợ Vua Hùng đau bụng đẻ đã lâu ngày mà vẫn không sinh nở, một nàng hầu gái bàn nên đón nàng Quế Hoa múa đẹp, hát hay đến múa hát. Quế Hoa được gọi đến trước giường, uốn tay đưa chân, dáng như tơ, giọng như suối, sắc như hoa... Vợ Vua Hùng xem múa nghe hát quả nhiên vui vẻ sinh ra được 3 người con trai tuấn tú khác thường. Vua Hùng rất vui mừng, truyền cho các công chúa và cung nữ đều học những điệu múa hát của Quế Hoa. Lúc đó vào mùa xuân nên vua đặt tên các điệu múa hát đó là Hát Xuân.
Ở xã Cao Mại lại kể rằng Nguyệt Cư công chúa, Vua bà xã Cao Mại, con Vua Hùng, lúc lọt lòng mẹ cứ khóc hoài không ai dỗ được, chỉ khi nghe người làng An Thái hát mới nín khóc, cứ như thế cho tới năm lên 3 tuổi. Các cụ còn kể rằng Nguyệt Cư qua làng An Thái được nghe hát rồi đau bụng đẻ, quân gia phải khiêng kiệu chạy thật nhanh về trang để bà kịp sinh nở. Cũng vì những tình tiết trên mà ở Cao Mại có lệ chạy kiệu Vua Bà và có Hát Xoan trong các ngày đình đám tế lễ, đó là những trò diễn hội làng có ý nghĩa kỷ niệm.
Làng Hương Nộn, nơi có hát Xoan thờ Xuân Nương, nữ tướng của Hai Bà Trưng, các cụ kể rằng: Xuân Nương khởi nghĩa đánh giặc Hán tham tàn, có lần hành quân qua làng Xoan được nghe hát Xoan bèn cho quân học hát. Cũng vì sự tích trên mà ngày tế Xuân Nương, dân làng Hương Nộn tổ chức hát Xoan. Nếu thời Hai Bà Trưng đã có Hát Xoan để quân bà Xuân Nương học hát thì Hát Xoan hẳn đã ra đời trước đó nghĩa là vào thời Hùng Vương.
Với những truyền thuyết và những sự tích Hát Xoan gắn với thời kỳ lịch sử Hùng Vương chúng ta có thể hiểu rằng Hát Xoan vốn có từ rất lâu đời.
Trong Văn hoá người Việt, tín ngưỡng thờ thành hoàng có từ xa xưa gắn liền với đời sống của cư dân trồng lúa nước. Ta thấy Hát Xoan là những điệu dân ca, dân vũ của người lao động, ngoài nội dung ca nợi thành hoàng, Vua, ca ngợi 4 mùa, quê hương, cầu chúc vụ mùa… còn phản ánh cuộc sống lao động hàng ngày như chèo thuyền, kiếm củi, đánh cá… Có thể nói hát xoan đã có từ rất sớm gắn liền với sự ra đời, phát triển cả lúa nước của người Việt cổ.
Qua nội dung của các tiết mục Hát Xoan, có thể giả thiết về tiến trình phát triển của xoan như sau:
Giai đoạn đầu (giai đoạn cổ nhất) chỉ là những bài hát mang tính chất khấn nguyện trong tế lễ. Đó là các tiết mục Giáo trống, giáo pháo, thơ nhang và đóng đám. Các tiết mục này mang nội dung khấn nguyện, nghi lễ thành hoàng, Vua quan. Nghệ thuật của nó cũng còn thô sơ, giai điệu gắn với lối ngâm đọc, cấu trúc âm nhạc đơn giản.
Đôi tay tôi nặng cả đám làng
Trống tôi vỗ bên vông thờ Vua thờ Chúa
Trống tôi vỗ bên tầm thờ đức Đại vương
(Giáo trống)
Đệ tam pháo mừng chúa ông
Đã nên đấng lại anh hùng
Là đã dẹp hết
Đông Tây Nam Bắc
Là đã thu về
Dẹp bắc đánh đông
(Giáo pháo)
Trước tôi đọc thơ
Sau tôi múa nhạc
Chúc Thánh mừng Vua
Chim phượng hoàng ơ
Hai hán Đại thánh
(Thơ nhang)
Riêng tiết mục Đóng đám, về phần cuối đã mang rõ tính chất trữ tình, giao duyên nam nữ:
Lẳng lơ đứng gốc cây mai
Bóng tôi tôi ngỡ bóng ai tôi nhầm
Lẳng lơ tôi chốn đi về
Gió rung cành trúc kéo lòng người thương
Giai đoạn thứ 2 là14quả cách được coi là một “Nhóm”. Nội dung của nó không còn chỉ là lời khấn nguyện trong tín ngưỡng nguyên thuỷ mà thực sự là những áng văn nôm do các nho sỹ sáng tác. Nhóm tiết mục này về sau mới được dựa thêm vào nội dung của Hát Xoan, trong một thời kỳ lịch sử nào đó. ở đây ta thấy những nội dung mang đạo lý Vua tôi, sự nhìn nhận quần chúng theo quan điểm nghề nghiệp (ngư, tiều, canh, mục), sự chiêm ngưỡng thiên nhiên theo lối nhàn tản (tứ mùa cách, nhàn ngâm cách). Đó là cách nhìn xã hội của các nhà nho. Và như vậy, nhóm tiết mục này có thể được bổ xung trong thời kỳ Nho giáo thịnh hành ở nước ta. Nghiên cứu nội dung các bài Xoan, ta thấy có nhiều cầu mang đậm dấu ấn thời đại lịch sử.
Nhà tôi nhà Lê
Là sông Bồ Đề
Nhớ về thiên hạ
Là núi Việt Nam
Cầy bừa ruộng lê
Là cứ làm lê
(Giáo pháo)
Thủa tháng xoan
Lê Hoàng làm chúa
Làng đây tốt lúa
Ăn uống no say
(Tứ mùa cách)
Đền cũ chủ ông
Thái tổ Thái tông
ấy Vua lão Hoàng
(Tràng Mai cách)
Những lời hát trên đưa ta đến suy nghĩ: Phải chăng nội dung Hát Xoan chịu ảnh hưởng của cuộc cải cách lễ nhạc do Nguyễn Trãi chủ trương dưới triều Lê Thái Tông?
Các tiết mục tiếp theo như: Bợm gái, bỏ bộ, xin họa đố chữ, cài hoa, giã cá…vẫn là những sáng tác dân gian như giai đoạn đầu, nhưng ở đây không còn chỉ là nội dung khẩn cầu mà đã chuyển sang dạng nội dung giao duyên nam nữ. Hình thức âm nhạc cũng phát triển cao hơn giai đoạn nguyên thuỷ, ở đây hầu hết kết cấu theo phong cách ca xướng. Nội dung tín ngưỡng chỉ còn được thể hiện gián tiếp qua một số lời ca hoặc các động tác phụ hoạ những sinh hoạt lao động như xe chỉ, luồn kim, chèo thuyền, đánh cá. Có những hát, múa thể hiện rõ sự kết hợp giữa 2 nội dung: Khấn nguyện và giao duyên như các điệu: Hát đúm, đánh cá…
Tóm lại, Hát Xoan ra đời từ rất sớm gắn với đời sống tín ngưỡng của người Việt cổ. Quá trình phát triển của nó bắt đầu từ những lời ca, lễ nghi nguyên thuỷ, sau này được bổ sung, phát triển trong thời kỳ phong kiến và được kết hợp giữa 2 yếu tố: Khấn nguyện và giao duyên trữ tình. Hình thức diễn xướng bao gồm nhiều thể loại hát, múa, nhạc, sân khấu. Đó là sự phát triển lôgíc mang tính chất lịch sử, văn hoá của dân ca nghi lễ, phong tục vùng Bắc bộ. Như vậy, Hát Xoan ra đời và được hoàn chỉnh như các bản Xoan hiện tồn chủ yếu vào thời Lê sơ (thế kỉ XV).
Chúng ta đã làm được một việc là bảo tồn và phục dựng Hát Xoan trên đất xưa của nó, theo chúng tôi nên mở rộng câu lạc bộ Hát Xoan ở các làng An Thái, làng Kim Đới, làng Thét, làng Phù Đức... tiếp tục chăm sóc tạo ra một sức sống mới, từ đó tạo ra một bước phát triển sâu rộng về phổ biến dân ca Xoan trong nhân dân.
Để gìn giữ chứng minh và phát triển vốn dân ca Xoan được tuyên truyền sâu rộng, không chỉ ở nhận thức mỗi người mà còn tổ chức tạo ra một môi trường phù hợp thì Hát Xoan mới tồn tại và phát triển. Quá trình phục hồi và bảo tồn các phong tục lễ nghi và các thiết chế văn hoá truyền thống hiện nay là môi trường tốt để dân ca Xoan có thể đi vào cuộc sống. Bởi vì chỉ có khi nào dân ca được trả về cội nguồn của những nề nếp sinh hoạt trong nhân dân thì nó mới sống và phát triển, mới mang được hơi thở và nhịp sống của thời đại.
Trong công cuộc đô thị hoá công nghiệp hoá hiện nay, Hát Xoan có thể phối hợp với ngành kinh tế du lịch tạo thành một món ăn tinh thần thưởng thức của du khách. Cùng với Khu di tích Đền Hùng, Hát Xoan và lễ hội của nó phải trở thành một món ăn đặc sản không thể thiếu trong các tour du lịch.
Nguyễn Anh Tuấn
GĐ. Bảo tàng tỉnh Phú Thọ